|
|
#1
|
|||
|
|||
Hịch Tướng Sĩ
Hịch Tướng Sĩ - Trần Hưng Đạo Tiểu sử Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho con hội đủ tài võ, mong trả mối thù sâu nặng năm nào. Lớn lên Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh, xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùnh cứu nước. Ông luôn đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ ha, thấy rõ ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ thù có lợi chỉ có thể là quân giặc. Bởi vậy, Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hùng mạnh. Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện chơi cờ và sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, vĩnh viễn xóa nỗi hiềm khích giữa hai người, đầu mối của hai chi họ Trần (Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Quang Khải là con Trần Cảnh). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý kích ông nên cướp ngôi chi thứ. Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho tới khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa. Trong kháng chiến, ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ Ông giết vua,. Ông liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân. Ba lần chống giặc, các vua Trần đều giao cho ông quyền Tiết chế (Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, do vậy tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến bách thắng. Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp Tông bí truyền thư dể răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng trận, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn trương của một bậc "đại bút". Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng gồm đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn tới đâu. Là tướng dũng, ông xông pha nơi nguy hiyểm để đánh giặc, tạo những trận như Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông thì gặp họa. Cho nên, cả 3 lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều bát binh mã và đều lập công lớn. Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi: Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? ông đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho mọi thời đại: - Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước. Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300), "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rường An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, phong ấp của ông lúc sinh thời. Hịch Tướng Sĩ - Trần Hưng Đạo Hịch Tướng Sĩ Bản Hán văn 諭諸裨將檄文 Dụ chư tỳ tướng hịch văn 余常聞之 Dư thường văn chi: 紀信以身代死而脫高帝 Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; 由于以背受戈而蔽招王 Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. 蓣讓吞炭而復主讎 Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù; 申蒯断臂而赴國難 Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn. 敬德一小生也身翼太宗而得免世充之 Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi; 杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計 Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế. 自古忠臣義士以身死國何代無]之 Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi? 設使數子區區為兒女子之態 Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái, 徒死牖下烏能名垂竹白 Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch, 與天地相為不朽哉 Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai! 汝等 Nhữ đẳng 世為將種不曉文義 Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, 其聞其說疑信相半 Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán. 古先之事姑置勿論 Cổ tiên chi sự cô trí vật luận. 今余以宋韃之事言之 Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi: 王公堅何人也 Vương Công Kiên hà nhân dã? 其裨將阮文立又何人也 Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã? 以釣魚鎖鎖斗大之城 Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành, 當蒙哥堂堂百萬之鋒 Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong, 使宋之生靈至今受賜 Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ! 骨待兀郎何人也 Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã? 其裨將赤脩思又何人也 Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã? 冒瘴厲於萬里之途 Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ, 獗南詔於數旬之頃 Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, 使韃之君長至今留名 Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh! 況余與汝等 Huống dư dữ nhữ đẳng, 生於擾攘之秋 Sinh ư nhiễu nhương chi thu; 長於艱難之勢 Trưởng ư gian nan chi tế. 竊見偽使往來道途旁午 Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ. 掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷 Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; 委犬羊之尺軀而倨傲宰祔 Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. 托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅 Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; 假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥 Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng khố. 譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉 Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai? 余常 Dư thường 臨餐忘食 Lâm xan vong thực, 中夜撫枕 Trung dạ phủ chẩm, 涕泗交痍 Thế tứ giao di, 心腹如搗 Tâm phúc như đảo. 常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也 Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. 雖 Tuy 余之百身高於草野 Dư chi bách thân, cao ư thảo dã; 余之千屍裹於馬革 Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, 亦願為之 Diệc nguyện vi chi. 汝等 Nhữ đẳng 久居門下 Cửu cư môn hạ, 掌握兵權 Chưởng ác binh quyền. 無衣者則衣之以衣 Vô y giả tắc ý chi dĩ y; 無食者則食之以食 Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực. 官卑者則遷其爵 Quan ti giả tắc thiên kỳ tước; 祿薄者則給其俸 Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng. 水行給舟 Thủy hành cấp chu; 陸行給馬 Lục hành cấp mã. 委之以兵則生死同其所為 Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi; 進之在寢則笑語同其所樂 Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc. 其是 Kỳ thị 公堅之為偏裨 Công Kiên chi vi thiên tì, 兀郎之為副貳 Ngột Lang chi vi phó nhị, 亦未下爾 Diệc vị hạ nhĩ. 汝等 Nhữ đẳng 坐視主辱曾不為憂 Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu; 身當國恥曾不為愧 Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý. 為邦國之將侍立夷宿而無忿心 Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm; 聽太常之樂宴饗偽使而無怒色 Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc. 或鬥雞以為樂 Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; 或賭博以為娛 Hoặc đổ bác dĩ vi ngu. 或事田園以養其家 Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; 或戀妻子以私於己 Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ. 修生產之業而忘軍國之務 Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; 恣田獵之遊而怠攻守之習 Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập. 或甘美酒 Hoặc cam mỹ tửu; 或嗜淫聲 Hoặc thị dâm thanh. 脱有蒙韃之寇來 Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, 雄雞之距不足以穿虜甲 Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp; 賭博之術不足以施軍謀 Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu. 田園之富不足以贖千金之軀 Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu; 妻拏之累不足以充軍國之用 Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng. 生產之多不足以購虜首 Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ; 獵犬之力不足以驅賊眾 Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng. 美酒不足以沈虜軍 Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân; 淫聲不足以聾虜耳 Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ. 當此之時 Ðương thử chi thời, 我家臣主就縛 Ngã gia thần chủ tựu phọc, 甚可痛哉 Thậm khả thống tai! 不唯余之采邑被削 Bất duy dư chi thái ấp bị tước, 而汝等之俸祿亦為他人之所有 Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu; 不唯余之家小被驅 Bất duy dư chi gia tiểu bị khu, 而汝等之妻拏亦為他人之所虜 Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ; 不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵 Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm, 而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘 Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật; 不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難 惡謚長存 Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn, 而汝等之家清亦不免名為敗將矣 Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ! 當此之時 Ðương thử chi thời, 汝等雖欲肆其娛樂 Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, 得乎 Đắc hồ? 今余明告汝等 Kim dư minh cáo nhữ đẳng, 當以措火積薪為危 Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy; 當以懲羹吹虀為戒 Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới. 訓練士卒 Huấn luyện sĩ tốt; 習爾弓矢 Tập nhĩ cung thỉ. 使 Sử 人人逄蒙 Nhân nhân Bàng Mông; 家家后羿 Gia gia Hậu Nghệ. 購必烈之頭於闕下 Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ; 朽雲南之肉於杲街 Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai. 不唯余之采邑永為青氈 Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên, 而汝等之俸祿亦終身之受賜 Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ; 不唯余之家小安床褥 Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục, 而汝等之妻拏亦百年之佳老 Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão; 不唯余之宗廟萬世享祀 Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự, 而汝等之祖父亦春秋之血食 Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực; 不唯余之今生得志 Bất duy dư chi kim sinh đắc chí, 而汝等百世之下芳名不朽 Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ; 不唯余之美謚永垂 Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy, 而汝等之姓名亦遺芳於青史矣 Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ. 當此之時 Ðương thử chi thời, 汝等雖欲不為娛樂 Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, 今余 Đắc hồ! 今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要 Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược. 汝等 Nhữ đẳng 或能專習是書受余教誨是夙世之臣主 Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã; 或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也 Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã. 何則 Hà tắc? 蒙韃乃不共戴天之讎 Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù, 汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為 Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm, 而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵 Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; 使平虜之後萬世遺羞 Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, 上有何面目立於天地覆載之間耶 Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da? 故欲汝等明知余心 Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, 因筆以檄云 Nhân bút dĩ hịch vân. Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, người dịch: Trần Trọng Kim Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín 紀 信 liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu 由 于 lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vượng; Dư Nhượng 豫 讓 nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái 申 蒯 chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức 敬 德 là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh 杲 卿 là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn 祿 山 là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được? Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên 王 公 堅 là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập 阮 文 立 lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư[1] nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha[2] kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu-nhương, gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm-rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt 忽 必 烈 mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam-vương[3] để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau! Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì. Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia-quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia-thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không? Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia-quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được phụng-thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một mình ta được sung-sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ. Nay ta soạn hết các binh-pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là « Binh-thư yếu-lược ». Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù. Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình-lỗ[4] mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt-mũi nào đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta. |
#2
|
|||
|
|||
Hịch Tướng Sĩ Bản diễn Song thất lục bát của Nguyễn Văn Bình Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết, Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng Dương Do Vu cháu Sở Chiêu Vương, Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua. Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn, Từng nuốt than lận đận phục thù. Kìa Thân Khoái một Tể Phu, Chặt tay theo nạn với vua Tề. Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức, Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi. Cảo Khanh quan ở biên thùy, Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân. Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước, Từng diệt thân cứu nước có nhiều. Những người kia nếu chẳng liều, Chết suông như đám nữ lưu xó nhà. Còn danh tiếng đâu mà chép lại, Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần. Các ngươi dòng dõi vũ thần, Xưa này nào có hiểu văn nghĩa gì. Nghe câu chuyện bán nghi bán tin, Sự muôn năm nhắc đến chi vay ? Nay ta hãy nói cho hay, Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao ? Vương Công Kiên người nào thế vậy ? Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào ? Điếu ngư thằng bé tẻo teo, Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn. Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận, Đến bây giờ dân vẫn hàm ân. Ngột Lang là tướng Đốc Quân, Với Tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào ? Ngoài muôn dặm quản bao nước độc, Trong mấy ngày phá rốc quân Nam. Lòng vua Thát Đát đã cam, Đ^ n nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào ? Ta với ngươi sinh vào đời loạn, Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan. Sứ Nguyên lai vãng bao lần, Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao. Triều đình bị cú diều soi mói, Tể tướng thì lang sói rẻ khinh. Mượn oai Hốt Liệt tranh giành, Lấy bao của báu chưa đành lòng tham. Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã, Đòi bạc vàng hết cả kho ta. Thịt nuôi hùm đói mãi a ? Sao cho thoát khỏi lo xa sau này. Ta đây những hàng ngày quên bữa, Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu. Giọt châu tầm tã tuôn trào, Như nung gan sắt, như bào lòng son. Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết, Lòng những toan xẻ thịt vằm da. Dù thân dầu với cỏ hoa, Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui. Các người vốn là người môn thuộc Được trông nom mọi việc binh cơ, Áo không, ta cỡi áo cho, Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng. Quan nhỏ thì ta phong chức cả, Lộc ít thì ta trả lương thêm. Đi sông, ta cấp cho thuyền, Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi. Cho cầm quân an nguy cùng lối, Cho nằm yên, vui nói cùng hàng. So Vương Kiên với Ngột Lang, Đãi chư Tỳ tướng mọi người kém chi. Nếu vua nhục ngươi thì chẳng đoái, Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ, Đừng hầu tướng giặc không dơ, Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo ngồi Khi gà chọi, khi thời cờ bạc, Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò. Ruộng vườn muôn sự ấm no, Vợ con vui thú riêng cho một mình. Ham lập nghiệp, quên tình nhà, nước, Mãi đi săn, nhác việc ngăn, ngừa. Rượu chè hôm sớm say sưa, Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng Đúng có lúc quân Mông, Thát tới, Cựa gà không chọc nỗi áo da, Những nghề cờ bạc tinh ma, Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân ? Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng, Vợ con nào đủ cáng quân nhu ? Của đâu chuốc được đầu thù ? Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời ? Rượu ngon khó làm mồi bã giặc, Hát hay không làm điếc tai thù. Bây giờ chẳng sót lắm ru ? Vua tôi bị trói gô một đàn ! Tước ấp ta bị tan nát cả, Bổng lộc người cũng chẳng còn gì Gia đình ta bị đuổi đi, Vợ ngươi cũng phải đến khi nhục nhằn Tông xã ta, địch quân xéo đi, Phần mộ ngươi cũng bị quật lên. Đời ta khổ nhục liên miên, Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau ! Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng, Không khỏi làm những tướng bị thua. Các ngươi đang lúc bây giờ, Muốn mong vui thích như xưa được nào ? Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ, Phải coi nằm trên lửa là nguy. Kiềng canh đưa cũng thổi xùy, Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung. Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ, Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng ham. Bêu đầu Hốt Liệt cho cam, Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường. Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ, Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời Gia đình ta được yên vui, Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm. Tông miếu ta nghìn năm hương lửa, Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường, Ta đây phỉ chí bồng tang, Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng. Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi Tính danh ngươi ghi với sử xanh. Bấy giờ vui thú linh đình, Các ngươi đều muốn buồn tênh được nào ? Này binh pháp soạn theo đời trước, Là "Binh Thư Yếu Lược" ban ra, Các ngươi theo đúng sách ta, Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa. Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy, Ấy kẻ thù đã mấy đời nay, Tại sao mà lại thế vầy ? Là thù không đội trời này được chung. Nếu các ngươi lòng không biết hổ, Không coi đều "sát Lỗ" là cần, Lại không vâng dạy luyện quân, Ấy là quay giáo, bó thân quy hàng. Giặn yên rồi còn mang tiếng mãi, Mặt mũi nào đứng với ca cao đây ? Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây, Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe. |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|